“Ngơ ngác” với những con ngựa đá
Các lăng tẩm triều Nguyễn như lăng Gia Long, lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị, lăng Tự Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Khải Định hiện vẫn còn hiện tồn 10 tượng ngựa đá.
Sử sách có ghi chép lại chuyện làm ngựa đá ở các lăng tẩm. Theo Đại Nam thực lục, năm 1831 vua Minh Mạng đã sai bộ Công nghĩ mẫu tượng đá quan văn, quan võ, lính thị vệ, voi đá, ngựa đá để thợ Quảng Nam (Thanh Hóa) chế tạo. Trong đó, ngựa đá hai con, mỗi con cao 2 thước 7 tấc. Khi chế tạo xong vua sai đem bày ở lăng Gia Long.
Không biết có một sức cuốn hút nào không mà nhà thơ Ngô Quân Miện, trong tập Núi thơ (NXB Hội Nhà Văn, 1993), từng viết trong bài Gửi lại Huế rằng:
Những lầu bia, lăng tẩm, sân rồng
Tôi ngơ ngác trước bái đình loang lổ
Ta đâu phải những văn thần áo mũ
Đứng xếp hàng bên voi, ngựa đá thềm vua
Như vậy, có thể nói rằng, các tượng ngựa đá ở Huế không những lưu giữ được nét văn hóa tâm linh của cung đình mà còn lưu giữ cả tâm hồn “ngơ ngác” của du khách trước một vẻ đẹp bí ẩn không thể cưỡng lại của mảnh đất đền đài lăng tẩm nổi tiếng như xứ Huế.
Cuốn hút với “ngựa hóa rồng”
Đã từ rất lâu, hình tượng long mã (ngựa hóa rồng) đã đặc trưng cho văn hóa tâm linh ở Huế. Tại các đình chùa, điện thờ, miếu mạo ở Huế, long mã thường được khắc họa hay đúc tượng trên các vật thể như bình phong, hoành phi. Nhưng nhiều nhất vẫn là trên các bức bình phong.
Bình phong là một “sản phẩm đặc trưng” của xứ Huế. Người Huế dựng bình phong ngay sau cửa ngõ để ngăn chặn các loại uế khí, hỏa khí và độc khí phát sinh từ các vật lạ thâm nhập vào nhà, đồng thời, khiến cho căn nhà trở nên ấm cúng, an toàn hơn. Và linh vật được chọn lựa để trang trí trên bình phong xứ Huế nhiều nhất chính là long mã.
Bình phong long mã nổi tiếng nhất ở Huế chính là bức bình phong xây dựng năm Thành Thái bát niên (1896) ở trường Quốc học Huế. Long mã trên bình phong này chính là nguyên mẫu của hình ảnh long mã trên logo của Festival Huế.
Như vậy, có thể nói, hình tượng “ngựa hóa rồng” không những đã in sâu vào văn hóa Huế mà nó còn là niềm cảm hứng du ngoạn vô tận dành cho du khách khi đến Huế.
Thả hồn theo những đám mây hình con ngựa
Vườn Quốc gia Bạch Mã thuộc địa phận hai huyện Phú Lộc và Nam Đông, cách thành phố Huế 60km về phía Nam. Các chuyên gia nước ngoài đánh giá Bạch Mã là một trong những vùng khí hậu dễ chịu nhất của những nơi nghỉ dưỡng trên vùng núi Đông Dương.
Đến với Vườn Quốc gia Bạch Mã, du khách còn được nghe truyền thuyết về cái tên Bạch Mã đầy thú vị. Người dân nơi đây từng kể rằng, các cụ ngày trước thường gặp tiên ngồi đánh cờ, ngựa đi ăn cỏ đồng xa. Một lần, ngựa mải ăn, đi xa quá, khi trở lại thì tiên đã bay về trời, ngựa nhớ chủ lang thang đi tìm, hóa thành mây trắng mang hình con ngựa. Cái tên Bạch Mã có từ đó.
Mãn nhãn với đội quân ngựa giấy
Huế nổi tiếng với nghề làm hàng mã từ xưa. Trong đó, không thể không kể đến mặt hàng ngựa giấy.
Ngựa giấy là ngựa cúng trạng, cúng quận, cúng cô nên việc làm một con ngựa giấy hết sức cẩn thận và tinh xảo. Như vậy, có thể nói một con ngựa giấy không những phải đảm bảo yếu tố thẩm mỹ mà còn phải toát ra được thần thái của một con chiến mã hùng dũng.
Đến Huế trong năm nay, du khách nhớ ghé đến các xóm, khu phố, làng nghề làm hàng mã ở Huế như Chi Lăng, Kim Long để có dịp mãn nhãn với đội quân ngựa giấy, ngàn con hùng dũng như một, như sẵn sàng tiến ra sa trường.
Thú vị sự tích “Ngựa Thượng Tứ” ở Đông Nam môn
Trong bài hát Rất Huế của mình, nhạc sĩ Võ Tá Hân đã thừa nhận con gái Huế có một cái gì đó e thẹn, khép nép, dịu dàng nhưng sâu lắng lạ:
Dạ thưa, ngọt lịm ai mê say
Em đi gót nhẹ xanh hồn cỏ
Và hơi thở mềm sương khói bay.
Tuy nhiên, ở Huế, khi nói về một người đàn bà hung dữ, có lời ăn tiếng nói thô lỗ, cử chỉ vùng vằng, người ta thường ví kẻ đó như “Con ngựa Thượng Tứ”. Vậy vì sao lại có nguyên cớ này, chắc hẳn du khách đến Huế ai cũng muốn sẽ có dịp tìm hiểu.
Nguyên nhân bắt đầu từ địa điểm có tên là Đông Nam Môn. Sở dĩ cửa có tên gọi là Thượng Tứ là vì ngày xưa, ở gần bên trong cửa thành này, triều đình đã thiết lập một cơ quan tên là Viện Thượng Tứ, chuyên trông coi việc nuôi ngựa để kéo xe cho vua.
Những con ngựa này thường là dữ dằn nên phải do đội phi kỵ vệ và khinh kỵ vệ nuôi dạy, huấn luyện cho ngựa trở nên thuần. Người đàn bà dữ dằn lúc nào cũng lồng lên như ngựa chứng thì có gọi là “Con ngựa Thượng Tứ”, dân gian gọi riết rồi thành thói quen cho đến tận bây giờ. Và cửa Đông Nam vì ở gần khu Thượng Tứ nên cũng được người dân gọi luôn là cửa Thượng Tứ, không ai còn để ý đến hai chữ Đông Nam ghi trên vọng lâu nữa.
Da diết điệu Lý ngựa ô
Huế thường buồn. Nhưng vào một đêm mưa lại càng buồn bã hơn. Đến với Huế vào một đêm như thế chắc hẳn du khách ai cũng mong muốn nghe một câu ca Huế, hò Huế với những nhịp phách tiền để xoa dịu đi sự u uất của cõi lòng.
Bởi còn gì đáng tiếc bằng việc bỏ qua việc buông thuyền trên dòng sông Hương thơ mộng về đêm để thả hồn vào những điệu hò mênh mông, những câu hát Nam Ai, Nam Bình sâu lắng và cả điệu Lý Ngựa ô da diết:
Ngựa ô ô í a ngựa ô ô ô
Dây thắm kiệu vàng ới bạn chúng mình ới bạn mình ơi!
Yên tra tra í a yên tra tra tra
Yên tra khớp bạc bộ lục lạc đồng đen…
Thong thả cưỡi ngựa ngắm cảnh cố đô
Du khách đến Huế mà cứ ngồi trên xe khách hoặc taxi để đi đến các địa điểm di tích thì mất hẳn cái thú thưởng ngoạn phong cảnh nên thơ, trữ tình của vùng đất cố đô. Thực ra, nếu du khách lựa chọn ngựa để làm phương tiện thì thú vui du lịch chắc hẳn sẽ được kéo dài đến… bất tận.
Đánh vào tâm lý và nhu cầu của du khách, Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế và các công ty dịch vụ du lịch đã đưa ngựa và xe ngựa, một phương tiện giao thông đặc thù vào các địa điểm du lịch then chốt.
Chẳng hạn, tại Huế đã có dịch vụ xe ngựa đón khách đi đến các di tích Hoàng thành, các lăng tẩm, chùa chiền và các danh lam thắng cảnh theo yêu cầu của khách. Quả thật, được thong dong dạo quanh xứ Huế bằng xe ngựa như thế thì còn gì thú vị bằng!
Thanh Niên Online